852000₫
check hàng kynu Các chỉ trích mà chủ nghĩa nữ quyền đồng tính nữ thường dùng để nhắm tới song tính luyến ái là song tính là phản nữ quyền, rằng song tính là một dạng ý thức sai lệch và rằng phụ nữ song tính theo đuổi mối quan hệ với nam giới là những người hoang tưởng và tuyệt vọng. Căng thẳng giữa những nhà nữ quyền song tính và những nhà nữ quyền đồng tính nữ đã dịu bớt từ thập niên 1990, khi phụ nữ song tính được chấp nhận hơn trong cộng đồng nữ quyền, nhưng một số nhà nữ quyền đồng tính nữ như Julie Bindel vẫn chỉ trích song tính luyến ái. Bindel mô tả song tính ở nữ như một xu hướng thời trang được quảng bá do chủ nghĩa khoái lạc tình dục và đặt ra nghi vấn rằng liệu song tính luyến ái có thật hay không. Bà còn so sánh một cách mỉa mai người song tính với những người yêu mèo và những người thờ phụng quỷ. Sheila Jeffreys viết trong viết trong Dị giáo đồng tính nữ (The Lesbian Heresy) rằng nhiều nhà nữ quyền thoải mái khi làm việc với đàn ông đồng tính, nhưng lại bất an khi giao thiệp với đàn ông song tính. Jeffreys chỉ ra rằng đàn ông đồng tính thường ít có khả năng sẽ quấy rối phụ nữ, còn đàn ông song tính thì có thể gây phiền hà cho phụ nữ y như đàn ông dị tính.
check hàng kynu Các chỉ trích mà chủ nghĩa nữ quyền đồng tính nữ thường dùng để nhắm tới song tính luyến ái là song tính là phản nữ quyền, rằng song tính là một dạng ý thức sai lệch và rằng phụ nữ song tính theo đuổi mối quan hệ với nam giới là những người hoang tưởng và tuyệt vọng. Căng thẳng giữa những nhà nữ quyền song tính và những nhà nữ quyền đồng tính nữ đã dịu bớt từ thập niên 1990, khi phụ nữ song tính được chấp nhận hơn trong cộng đồng nữ quyền, nhưng một số nhà nữ quyền đồng tính nữ như Julie Bindel vẫn chỉ trích song tính luyến ái. Bindel mô tả song tính ở nữ như một xu hướng thời trang được quảng bá do chủ nghĩa khoái lạc tình dục và đặt ra nghi vấn rằng liệu song tính luyến ái có thật hay không. Bà còn so sánh một cách mỉa mai người song tính với những người yêu mèo và những người thờ phụng quỷ. Sheila Jeffreys viết trong viết trong Dị giáo đồng tính nữ (The Lesbian Heresy) rằng nhiều nhà nữ quyền thoải mái khi làm việc với đàn ông đồng tính, nhưng lại bất an khi giao thiệp với đàn ông song tính. Jeffreys chỉ ra rằng đàn ông đồng tính thường ít có khả năng sẽ quấy rối phụ nữ, còn đàn ông song tính thì có thể gây phiền hà cho phụ nữ y như đàn ông dị tính.
Lúc đầu Đài này là hệ phát thanh đối ngoại của Đài Phát thanh Tân Hoa Diên An (nay là Đài Phát thanh Nhân dân Trung ương). Những năm đầu thập niên 1940, Trung Quốc đang trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật Bản. Để tuyên truyền kháng chiến chống Nhật, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thành lập Đài Phát thanh Tân Hoa tại Diên An miền Tây Bắc để giới thiệu tình hình trong và ngoài nước lúc bấy giờ, cũng như kêu gọi các giới trong và ngoài nước cùng chung sức kháng Nhật. Ngày 3 tháng 12 năm 1941, chương trình đầu tiên của Đài đã lên sóng. Thời kỳ mới thành lập mỗi ngày chỉ có 15 phút phát thanh bằng tiếng Nhật. Phát thanh viên đầu tiên là nữ chiến sĩ chống phát xít đã quá cố Hara Kiyoshi. Phòng thu thanh lúc bấy giờ hang động đơn sơ, công suất phát sóng chỉ có 300 watt. Hara Kiyoshi đã giới thiêu với người dân Nhật Bản về sự thật của cuộc kháng chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, có sức thuyết phục và tác động mạnh tới rất nhiều người. Nhiều vị chuyên gia Nhật đến làm việc cho Đài sau này đã từng tham gia đội quân Nhật Bản xâm lược Trung Quốc năm xưa. Trong đó có người đầu hàng phía Trung Quốc, có người thì đào ngũ chạy sang phía Trung Quốc. Về sau, ngày 3 tháng 12 năm 1941 được xác định là ngày mở dầu cho sự nghiệp phát thanh đối ngoại của Trung Quốc.