188000₫
sdt rikvip Chiếc '''Me 210''' là một kiểu máy bay tiêm kích hạng nặng/máy bay cường kích của Không quân Đức trong Thế Chiến II được phát triển bởi Messerschmitt. Chiếc Me 210 được thiết kế để thay thế kiểu máy bay Bf 110 trong vai trò máy bay tiêm kích hạng nặng, và công việc đã được bắt đầu trước khi chiến tranh nổ ra. Kiểu mẫu Me 210 đầu tiên đã sẵn sàng vào năm 1939, nhưng nó cho thấy có các tính năng bay kém. Chương trình thử nghiệm hoạt động quy mô lớn thực hiện suốt năm 1941 và đầu năm 1942 đã không giải quyết được các vấn đề của chiếc máy bay. Kiểu máy bay này sau đó đượcđưa ra sử dụng hạn chế vào năm 1943, nhưng bị thay thế hầu như ngay lập tức bởi chiếc máy bay kế nhiệm của nó là chiếc Messerschmitt Me 410. Chiếc Me 410 thật ra là sự phát triển nâng cao của kiểu Me 210, được đặt lại tên mới nhằm tránh tai tiếng của kiểu 210. Sự thất bại của chương trình phát triển Me 210 buộc Không quân Đức phải tiếp tục đưa kiểu máy bay lạc hậu Bf 110 ra hoạt động, và chịu tổn thất cao.
sdt rikvip Chiếc '''Me 210''' là một kiểu máy bay tiêm kích hạng nặng/máy bay cường kích của Không quân Đức trong Thế Chiến II được phát triển bởi Messerschmitt. Chiếc Me 210 được thiết kế để thay thế kiểu máy bay Bf 110 trong vai trò máy bay tiêm kích hạng nặng, và công việc đã được bắt đầu trước khi chiến tranh nổ ra. Kiểu mẫu Me 210 đầu tiên đã sẵn sàng vào năm 1939, nhưng nó cho thấy có các tính năng bay kém. Chương trình thử nghiệm hoạt động quy mô lớn thực hiện suốt năm 1941 và đầu năm 1942 đã không giải quyết được các vấn đề của chiếc máy bay. Kiểu máy bay này sau đó đượcđưa ra sử dụng hạn chế vào năm 1943, nhưng bị thay thế hầu như ngay lập tức bởi chiếc máy bay kế nhiệm của nó là chiếc Messerschmitt Me 410. Chiếc Me 410 thật ra là sự phát triển nâng cao của kiểu Me 210, được đặt lại tên mới nhằm tránh tai tiếng của kiểu 210. Sự thất bại của chương trình phát triển Me 210 buộc Không quân Đức phải tiếp tục đưa kiểu máy bay lạc hậu Bf 110 ra hoạt động, và chịu tổn thất cao.
Âm tiết n (ん) ra đời từ một kiểu viết thảo của ký tự 无. Cách phát âm cải cách từ năm 1900 chia ra 2 cách, trong đó ký tự む chỉ được dùng cho âm tiết /mu/ và ký tự ん chỉ được dùng cho âm tiết cuối /n/. Trước đó, khi thiếu ký tự biểu diễn âm tiết cuối /n/, âm được đánh vân (những không phải phát âm) một cách đồng nhất là /mu/, và người đọc phải dựa vào văn cảnh để hiểu dụng ý đề cập của nó. Sự phức tạp này dẫn đến một số cách diễn đạt hiện đại dựa trên kiểu phát âm đánh vần. Ví dụ, ''iwan to suru'' (thử nói) có âm tiết cuối vốn phải phát âm la /n/ hay bị nhầm thành ''mu''. (Mẫu câu tiếng Nhật hiện đại 言おう (''iō'') vốn là mẫu câu 言はむ (''ihamu'') trước đó chuyển thành. Ngoài ra còn một số mẫu câu khác.)