827000₫
trực tiếp đá gà thomo bình luận viên Grumman đã làm việc cho một máy bay tiếp nối F4F Wildcat lâu trước khi Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Dù F4F là một máy bay tiêm kích có khả năng, những đối địch ban đầu cho thấy kiểu A6M Zero của Nhật cơ động hơn và có tốc độ lên cao nhanh hơn F4F, cho dù F4F có một số ưu thế so với Zero. Wildcat chịu đựng được một lượng tổn hại đáng kể so với Zero, và trang bị vũ khí tốt hơn. F4F cũng bổ nhào nhanh hơn Zero, một ưu thế mà phi công Wildcat thường dùng để né tránh sự tấn công của Zero. Những ưu điểm đó được mang vào F6F kèm theo những cải tiến khác, tạo ra kiểu máy bay tiêm kích vượt trội Zero hoàn toàn. Hợp đồng cho chiếc nguyên mẫu '''XF6F-1''' được ký vào ngày 30 tháng 6 năm 1941. F6F ban đầu được lắp động cơ Wright R-2600 Cyclone 1.700 mã lực (1.268 kW), nhưng căn cứ trên kinh nghiệm chiến đấu giữa F4F Wildcat và Zero, Grumman quyết định cải tiến chiếc máy bay tiêm kích của họ vượt trội sự khống chế của Mitsubishi A6M Zero trên Mặt trận Thái Bình Dương. Grumman trang bị động cơ Pratt & Whitney R-2800 Double Wasp 2.000 mã lực (1.500 kW) ước lượng sẽ có tác dụng nâng tính năng bay thêm được 25%. Nguyên mẫu trang bị động cơ Cyclone (02981) bay lần đầu ngày 26 tháng 6 năm 1942 trong khi kiểu gắn động cơ Double Wasp, chiếc '''XF6F-3''' (02982) bay lần đầu ngày 30 tháng 7 năm 1942.
trực tiếp đá gà thomo bình luận viên Grumman đã làm việc cho một máy bay tiếp nối F4F Wildcat lâu trước khi Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Dù F4F là một máy bay tiêm kích có khả năng, những đối địch ban đầu cho thấy kiểu A6M Zero của Nhật cơ động hơn và có tốc độ lên cao nhanh hơn F4F, cho dù F4F có một số ưu thế so với Zero. Wildcat chịu đựng được một lượng tổn hại đáng kể so với Zero, và trang bị vũ khí tốt hơn. F4F cũng bổ nhào nhanh hơn Zero, một ưu thế mà phi công Wildcat thường dùng để né tránh sự tấn công của Zero. Những ưu điểm đó được mang vào F6F kèm theo những cải tiến khác, tạo ra kiểu máy bay tiêm kích vượt trội Zero hoàn toàn. Hợp đồng cho chiếc nguyên mẫu '''XF6F-1''' được ký vào ngày 30 tháng 6 năm 1941. F6F ban đầu được lắp động cơ Wright R-2600 Cyclone 1.700 mã lực (1.268 kW), nhưng căn cứ trên kinh nghiệm chiến đấu giữa F4F Wildcat và Zero, Grumman quyết định cải tiến chiếc máy bay tiêm kích của họ vượt trội sự khống chế của Mitsubishi A6M Zero trên Mặt trận Thái Bình Dương. Grumman trang bị động cơ Pratt & Whitney R-2800 Double Wasp 2.000 mã lực (1.500 kW) ước lượng sẽ có tác dụng nâng tính năng bay thêm được 25%. Nguyên mẫu trang bị động cơ Cyclone (02981) bay lần đầu ngày 26 tháng 6 năm 1942 trong khi kiểu gắn động cơ Double Wasp, chiếc '''XF6F-3''' (02982) bay lần đầu ngày 30 tháng 7 năm 1942.
Một chiếc P-38J được dùng thử nghiệm một kiểu tiếp nhiên liệu trên không, mang một thùng nhiên liệu phụ vứt được nối bằng dây cáp từ một máy bay ném bom. Không lực Mỹ đã tìm cách cho nó hoạt động, nhưng cho rằng nó không thiết thực. Một chiếc P-38J khác cũng được gắn thử nghiệm bộ càng đáp trượt tuyết thu vào được, nhưng ý tưởng này chưa từng được đưa ra hoạt động.