xổ số miền bắc thứ tư hàng
link vào bk8 không bị chặn
xsmt 27 6
kubet 6996 com

xoso wap vn xsmb

940000₫

xoso wap vn xsmb Vào tháng 10 năm 1949, sau cuộc rút lui của Quốc Dân Đảng ra đảo Đài Loan, Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp nhận quyền lực quốc gia. Một trong những chính sách đầu tiên và quan trọng nhất là cải cách ruộng đất trong đó đất của địa chủ và những người nông dân giàu có hơn bị ép buộc phân phát lại cho nông dân nghèo hơn. Trong hàng ngũ Đảng, có một cuộc tranh luận lớn về việc cải cách ruộng đất nên phải thực hiện như thế nào và với mức độ nào. Phe ôn hòa gồm có thành viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ cho rằng sự thay đổi nên diễn ra từng bước một và rằng bất cứ một sự tập thể hóa nông dân nào cũng nên chờ đợi cho đến khi đã thực hiện xong công nghiệp hóa để có thể cung ứng máy móc nông nghiệp cần thiết cho cơ giới hóa nông nghiệp. Một phe cấp tiến do Mao Trạch Đông lãnh đạo cho rằng cách tốt nhất để tài trợ cho công nghiệp hóa là để Chính phủ nắm giữ nông nghiệp, bằng cách đó sẽ thiết lập độc quyền đối với việc phân phát và cung cấp lúa gạo. Điều này sẽ cho phép chính phủ mua ở giá thấp và bán ở giá cao hơn, từ đó tích lũy vốn cần thiết cho công nghiệp hóa đất nước. Khi nhận ra rằng chính sách này không được quần chúng nông dân ưa chuộng, có người đề nghị là nông dân nên bị ép buộc nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ bằng việc thiết lập các nông trường tập thể, nơi sẽ có ích cho việc chia sẻ dụng cụ và súc vật lao động. Chính sách này dần dần được hối thúc tiến hành giữa năm 1949 và 1958, đầu tiên là thành lập các đội trợ giúp hỗ tương (''mutual aid teams'') gồm từ 5 -15 hộ gia đình, sau đó vào năm 1953 là hợp tác xã nông nghiệp cơ bản (''elementary agricultural cooperatives'') gồm từ 20 - 40 hộ gia đình, rồi từ năm 1956 là các đại hợp tác xã (''higher co-operatives'') gồm từ 100-300 gia đình. Những cải cách này (ngày nay đôi khi được nhắc đến như là Tiểu nhảy vọt) thường thì không được người nông dân ưa chuộng và thường được áp đặt bằng cách mời nông dân đến các buổi họp và giữ họ ở đó nhiều ngày và đôi khi nhiều tuần cho đến khi họ tự nguyện đồng ý gia nhập tập thể hóa.

Số lượng
Thêm vào danh sách mong muốn
Mô tả sản phẩm

xoso wap vn xsmb Vào tháng 10 năm 1949, sau cuộc rút lui của Quốc Dân Đảng ra đảo Đài Loan, Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp nhận quyền lực quốc gia. Một trong những chính sách đầu tiên và quan trọng nhất là cải cách ruộng đất trong đó đất của địa chủ và những người nông dân giàu có hơn bị ép buộc phân phát lại cho nông dân nghèo hơn. Trong hàng ngũ Đảng, có một cuộc tranh luận lớn về việc cải cách ruộng đất nên phải thực hiện như thế nào và với mức độ nào. Phe ôn hòa gồm có thành viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ cho rằng sự thay đổi nên diễn ra từng bước một và rằng bất cứ một sự tập thể hóa nông dân nào cũng nên chờ đợi cho đến khi đã thực hiện xong công nghiệp hóa để có thể cung ứng máy móc nông nghiệp cần thiết cho cơ giới hóa nông nghiệp. Một phe cấp tiến do Mao Trạch Đông lãnh đạo cho rằng cách tốt nhất để tài trợ cho công nghiệp hóa là để Chính phủ nắm giữ nông nghiệp, bằng cách đó sẽ thiết lập độc quyền đối với việc phân phát và cung cấp lúa gạo. Điều này sẽ cho phép chính phủ mua ở giá thấp và bán ở giá cao hơn, từ đó tích lũy vốn cần thiết cho công nghiệp hóa đất nước. Khi nhận ra rằng chính sách này không được quần chúng nông dân ưa chuộng, có người đề nghị là nông dân nên bị ép buộc nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ bằng việc thiết lập các nông trường tập thể, nơi sẽ có ích cho việc chia sẻ dụng cụ và súc vật lao động. Chính sách này dần dần được hối thúc tiến hành giữa năm 1949 và 1958, đầu tiên là thành lập các đội trợ giúp hỗ tương (''mutual aid teams'') gồm từ 5 -15 hộ gia đình, sau đó vào năm 1953 là hợp tác xã nông nghiệp cơ bản (''elementary agricultural cooperatives'') gồm từ 20 - 40 hộ gia đình, rồi từ năm 1956 là các đại hợp tác xã (''higher co-operatives'') gồm từ 100-300 gia đình. Những cải cách này (ngày nay đôi khi được nhắc đến như là Tiểu nhảy vọt) thường thì không được người nông dân ưa chuộng và thường được áp đặt bằng cách mời nông dân đến các buổi họp và giữ họ ở đó nhiều ngày và đôi khi nhiều tuần cho đến khi họ tự nguyện đồng ý gia nhập tập thể hóa.

Bộ phim ''Viskningar och rop'' (1974) của Bergman từng được đề cử Giải Oscar Phim hay nhất và cũng không giành chiến thắng. Tuy vậy ba trong số các phim của ông cũng từng được trao Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất (cũng là ba lần chiến thắng duy nhất của phim Thụy Điển), đó là các phim ''Jungfrukällan'' (1960), ''Såsom i en spegel'' (1961) và ''Fanny och Alexander'' (1983).

Sản phẩm liên quan